Trước vướng mắc của Cục Hải quan Đồng Nai về việc tính tiền chậm nộp đối với số tiền thuế thu hồi do hoàn không đúng quy định. Tổng cục Hải quan cho biết, trường hợp DN không đủ điều kiện hoàn thuế nhưng cơ quan Hải quan đã hoàn thuế nên phải thu hồi lại tiền thuế thì ngoài việc nộp lại khoản tiền được hoàn, DN phải nộp số tiền chậm nộp trên số tiền đã được hoàn.
Cục Hải quan Đồng Nai nêu trường hợp thu hồi tiền thuế đã hoàn theo công văn 4893/TCHQ-GSQL ngày 30/7/2019 của Tổng cục Hải quan. Tại thời điểm khai hải quan, DN nợ Giấy chứng nhận xuất xứ (C/O mẫu D), áp dụng mức thuế suất NK ưu đãi MFN, đã nộp thuế theo mức thuế MFN đúng thời hạn nộp thuế theo quy định tại Điều 9 Luật Thuế XK, thuế NK nên không phát sinh tiền chậm nộp thuế.
Công chức Hải quan Đồng Nai hướng dẫn thủ tục cho DN. Ảnh: N.Hiền
Sau đó, DN khai bổ sung, nộp C/O bản chính và được cơ quan Hải quan chấp nhận, hàng hóa NK áp dụng mức thuế suất NK ưu đãi đặc biệt, khoản tiền chênh lệch giữa áp dụng mức thuế suất ưu đãi MFN và ưu đãi đặc biệt được hoàn theo quy định nộp thừa.
Căn cứ công văn 4893/TCHQ- GSQL ngày 30/7/2019 của Tổng cục Hải quan xác định DN không nộp C/O tại thời điểm làm thủ tục hải quan nên hàng hóa NK không được áp dụng mức thuế suất ưu đãi đặc biệt, cơ quan Hải quan thực hiện ấn định thuế để thu hồi tiền thuế đã hoàn.
Hải quan Đồng Nai cũng nêu, trường hợp thu hồi tiền đã hoàn theo công văn số 6830/TCHQ-TXNK ngày 21/11/2018 của Tổng cục Hải quan về việc đã thu hồi tiền thuế đã hoàn đối với loại hình XNK tại chỗ.
Theo đó, tại thời điểm khai hải quan, DN đã kê khai, nộp thuế đúng thời hạn đã nộp thuế quy định nên không phát sinh tiền chậm nộp tiền thuế. Hàng NK sau đó được đưa vào sản xuất và XK tại chỗ (trừ XK vào khu phi thuế quan). DN nộp hồ sơ hoàn thuế và số tiền thuế được hoàn đã chuyển vào tài khoản DN.
Cũng theo công văn 6830, cơ quan Hải quan đã ban hành quyết định ấn định thuế để thu hồi số tiền thuế đã hoàn (do hàng hóa XK tại chỗ không đáp ứng điều kiện hoàn thuế theo quy định tại Khoản 1, Điều 36 Nghị định 134/2016/NĐ-CP).
Theo những quy định trên, thời hạn tính chậm nộp thuế được áp dụng theo thời hạn nộp thuế của tờ khai hải quan hoặc thời hạn ghi trong quyết định ấn định thuế. Tuy nhiên, trường hợp cơ quan quản lý thuế ấn định thuế để thu hồi số tiền thuế đã hoàn không đúng quy định có phải tính chậm nộp thuế hay không, trường hợp tính chậm nộp thuế thì tính từ thời điểm hoàn thuế hay thời điểm ấn định thuế, Hải quan Đồng Nai thắc mắc.
Về vấn đề này, theo Tổng cục Hải quan, tại Khoản 1, Điều 9 Luật Thuế XK, thuế NK quy định về thời hạn nộp thuế: “1. Hàng hóa XNK thuộc đối tượng chịu thuế phải nộp thuế trước khi thông quan hoặc giải phóng hàng theo quy định của Luật Hải quan, trù trường hợp quy định tại Khoản 2 Điều này”.
Cũng tại Điểm a, Khoản 5, Điều 42 Thông tư 38/2015/TT-BTC của Bộ Tài chính quy định về thời hạn nộp tiền thuế ấn định: “a) Các tờ khai hải quan đăng ký kể từ ngày 1/7/2013, cơ quan Hải quan ấn định số tiền thuế phải nộp thì thời hạn nộp tiền ấn định được áp dụng theo thời hạn nộp thuế của tờ khai đó”.
Khoản 66, Điều 1 Thông tư 39/2018/TT-BTC sửa đổi, bổ sung Điểm a, b, Khoản 1, Điều 133 Thông tư 38/2015/TT-BTC quy định tiền nộp chậm: “a) Nộp tiền thuế chậm so với thời hạn quy định, thời hạn được gia hạn nộp thuế, thời hạn ghi trong quyết định ấn định thuế và văn bản xử lý về thuế của cơ quan có thẩm quyền. b) Nộp bổ sung tiền thuế do khai sai số tiền thuế phải nộp, số tiền thuế được miễn, số tiền thuế được giảm, số tiền thuế được hoàn”.
Theo Tổng cục Hải quan, theo quy định và các văn bản hướng dẫn, trường hợp DN không đủ điều kiện hoàn thuế NK hoặc không đủ điều kiện áp dụng thuế suất ưu đãi đặc biệt nhưng cơ quan Hải quan đã hoàn thuế nên phải ban hành quyết định ấn định thuế để thu hồi lại tiền thuế đã hoàn thì ngoài việc nộp lại tiền thuế đã được hoàn, DN còn phải nộp tiền chậm nộp tính trên số tiền thuế được hoàn nay phải thu hồi. Thời gian tính chậm nộp kể từ ngày DN nhận được tiền thuế hoàn (ngày báo nợ vào tài khoản DN) đến ngày thực nộp lại tiền thuế đã hoàn vào NSNN.